2.
Từ kinh nghiệm đến khoa học (1835-1887). Giai đoạn này được đánh dấu bằng những nghiên cứu hệ thống, phát minh các quá trình xúc tác mới và nhận thức sâu hơn về phản ứng hóa học. Wilhelmy 1850 chứng tỏ tốc độ pưhh phụ thuộc vào tác chất, từ đây nhận thấy tính thuận nghịch của pưhh. 1862 Berthollet và Pean Gilles cho thấy tốc độ pư ester hóa tỷ lệ với nồng độ acid. 1864 Guldberg và Waage thiết lập định luật tác dụng khối lượng (active mass law). 1877 Lemoine cho thấy chất xúc tác giúp pưhh nhanh đạt cân bằng, nhưng không làm thay đổi vị trí cân bằng.
Wilhelm Ostwald cho rằng chất xúc tác không gây ra pưhh, nó chỉ tăng tốc hay kiềm hãm pư mà thôi. Rất nhiều nhà nghiên cứu không đồng ý với Ostwald, họ cho rằng chất xúc tác gây ra pưhh. Ostwald thời đó là một người rất nổi tiếng (không thua gì Einstein), ông đoạt giải Nobel Hóa học năm 1909 về lĩnh vực xúc tác. Những nhà khoa học nỗi tiếng thời đó hoặc sau này đoạt giải Nobel trên khắp thế giới đều đến nghiên cứu tại PTN của ông một thời gian. Ostwald từng viết: "There is probably no chemical reaction which can not be influenced catalytically". Giai đoạn này cũng chứng kiến hàng trăm quá trình xúc tác mới ra đời.
3. Xúc tác công nghiệp ra đời (1888-1918). Sự phát triển của kiến thức hàn lâm chuyển sang những ứng dụng công nghiệp. 1888, Knietsch phát triển xúc tác Pt/V2O5 cho quá trình sản xuất công nghiệp H2SO4. Quá trình ammonia quan trọng nhất trong giai đoạn này. Haber và Nernst phát triển quá trình này từ 1902, 1905 dùng xúc tác trên cơ sở Fe cho quá trình sx ở nhiệt độ cao và áp suất cao. 1906 Ostwald oxy hóa NH3 thành HNO3 trên Pt/Rh. NH3 chủ yếu làm phân bón, nhưng nhờ quá trình này có thể dùng làm sx chất nổ phục vụ World War I. 1909 Mittasch phát triển chất xúc tác công nghiệp đầu tiên sx NH3 từ N2+H2 (BASF). 1913, hầu hết ammonia ở Europe dùng sx chất nổ. 1914, World War I nổ ra.
1915 Irving Langmuir đưa ra lý thuyết hấp phụ đơn lớp.
1918 Haber nhận giải Nobel Hóa học, chiến tranh kết thúc. Có thể thấy khoa học xúc tác giai đoạn này chủ yếu phục vụ chiến tranh.
4. Xúc tác cho fuel (1918-1945). Chiến tranh kết thúc, nhu cầu về chất nổ giảm nhiều. Sản xuất công nghiệp hướng sang synthetic fuels và các quá trình mới. 1920, Standard Oil Company sản xuất isopropanol từ petroleum. Đây là quá trình đầu tiên trên petroleum. 1922 Fischer và Tropsch tổng hợp hydrocarbon từ CO và H2, 1925 tổng hợp hiệu suất cao ở áp suất cao trên Fe-Co-Ni. 1926 DuPont sản xuất methanol tổng hợp dùng cho fuel cell. 1927 Hinshelwood dựa trên ý tưởng của Langmuir đề nghị lý thuyết động học Langmuir-Hinshelwood áp dụng để mô hình hóa xúc tác, thiết kế reactor và các principle trong công nghệ hóa học. 1921 Thomas Midgley phát minh chì tetraethyl dùng làm tác nhân chống sốc trong xăng. 1930 Standard Oil Company dùng steam reforming sản xuất H2. Igor Tamm và John Barden nghiên cứu cấu trúc, trạng thái electron trên bề mặt kim loại.
1932 Langmuir đoạt giải Nobel Hóa học. 1936 Eugene Houdry phát triển quá trình xúc tác cracking petrolium. Đây là một trong những quá trình hóa học quan trọng nhất, thay thế chì tetraethyl trong xăng. 1940 Temkin mô tả động học quá trình ammonia, Hendrik Kramer publish động học phản ứng xúc tác. 1941 Lewis và Gilliland phát triển công nghệ xúc tác cracking fluid (FCC) thay thế công nghệ fixed-bed của Houdry. Nhờ FCC, lượng gasoline khổng lồ được sx dùng cho máy bay phục vụ World War II. Lại phục vụ chiến tranh !
Nhưng chắc là đóng góp vào chiến tranh trong lĩnh vực này không thể bằng Nobel và Einstein được !