PDA

View Full Version : Thông tin nghiên cứu


Teppi
03-31-2009, 05:01 PM
Alkylchitosan: tính chất lưu biến và độ ổn định lưu biến theo nhiệt độ.

Chitosan được biến tính hóa học bằng quá trình khử amin và gắn các mạch alkyl kỵ nước dọc theo mạch đại phân tử ưa nước. Điều này tạo ra phân tử polymer lưỡng tính , có sự cân bằng ưa nước-kỵ nước được hiệu chỉnh theo chiều dài mạch alkyl hoặc mức độ thế các nhóm amin. Sự hiện diện tương tác kỵ nước giữa các mạch alkyl làm thay đổi các tính chất hóa –lý của dung dịch chitosan đã biến tính.Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng nồng độ polymer và nhiệt độ lên chúng. Nghiên cứu cũng giới thiệu các ứng dụng làm chất hỗ trợ lưu biến. Kết quả nghiên cứu định ra các ngưỡng nồng độ liên quan đến sự ứng xử nhiệt độ khác thường của hệ. Theo đó, hệ đạt độ nhớt không đổi hoặc gia tăng theo nhiệt độ.

Polymer 45 (2004) p3285 Autoassociative natural polymer derivatives: the alkylchitosans. Rheological behaviour and temperature stability

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Jacquer Desbrieres qua email: jacques.desbrieres@cermav.cnrs.fr,jacques.desbrier es@univ-pau.fr


Ảnh hưởng của nhiệt độ phún xuất và tỷ lệ phối trộn lên quá trình phún xuất tĩnh điện sợi tổ hợp chitosan/poly(acryalmide)

Nghiên cứu công bố sự hình thành sợi không có khuyết tật nở bi hai đầu bằng phun xuất tĩnh điện dung dịch chitosan và polyacrylamide (PAAm) có tỷ lệ phối trộn 75% đến 90% chitosan. Quá trình phún xuất tĩnh điện sử dụng thiết bị cải tiến giúp nhiệt độ phún xuất có thể ở nhiệt độ thường hoặc lên đến 100 <sup>o</sup>C. Sự phún xuất ở nhiệt độ cao tạo ra sợi ít khuyết tật khi dùng hỗn hợp có hàm lượng chitosan cao. Các ảnh hưởng từ tỷ lệ trộn, nhiệt độ phún xuất, trọng lượng phân tử lên sự hình thành sợi được nghiên cứu để tìm điều kiện sản xuất tối ưu cho các ứng dụng màng lọc không khí và nước. Các sợi mat có đường kính trung bình 307 +/- 67 nm được hình thành từ phún xuất dung dịch 90% chitosan ở 70<sup>o</sup>C

Polymer 49 (2008) p4046 Effect of spinning temperature and blend ratios on electrospun chitosan/ poly(acrylamide) blends fibers.

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Kevin Kit qua email: kkit@utk.edu

Hydrogel nhạy điện áp gốc chitosan

Bài báo giới thiệu màng hydrogel đa điện ly lưỡng tính tự nhiên từ tổ hợp chitosan và dẫn xuất carboxymethylchitosan được khâu mạch bằng glutaraldehyde. Khi có kích thích điện, hydrogel này nhanh chóng uốn về phía điện cực, cho thấy tính nhạy điện. Vì bản chất lưỡng tính, hydrogel uốn về hướng cực âm ( pH<7) hoặc cực dương (pH>7) tùy thuộc vào độ pH của dung dịch. Ngoài khảo sát tác động pH, các yếu tố khác như lực ion, độ bền trường điện, độ dày hydrogel và lượng chất khâu mạch dùng cũng có ảnh hường đến ứng xử cơ điện của hydrogel. Kết quả nghiên cứu tổ hợp hydrogel chitosan/carboxymethylchitosan cũng được dùng so sánh với chitosan/ carboxymethylcellulose. Hệ hydrogel chitosan/carboxymethylchitosan được đánh giá có tiềm năng ứng dụng lớn trong các đầu vi dò và khớp nhân tạo, đặc biệt trong lĩnh vực y sinh học.

http://i290.photobucket.com/albums/ll270/ctnhan/pHsensitivehydrogelexp.jpg

Polymer 49 (2008) p5520 Chitosan-based electroactive hydrogel

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Xin Chen qua email: chenx@fudan.edu.cn

Tổng hợp và định tính các hydrogel gắn chitosan cho ứng dụng phóng thải thuốc có kiểm soát

Các hydrogel nhạy nhiệt và pH có ghép chitosan trên poly acrylic acid (PAAc), poly hydroxy propyl methacrylate (PHPMA), poly (vinyl alcohol) (PVA) và gelatin được điều chế để nghiên cứu sự phóng thải thuốc có kiểm soát. Hydrogel được tổng hợp bằng kỹ thuật chiếu xạ gamma. Các phân tính tính chất của hydrogel sau khi điều chế được thực hiện bằng kính hiển vi điện tử quét SEM, phân tích phổ hồng ngoại FTIR và nhiệt vi sai DSC. Các khảo sát về cân bằng trương nở được thực hiện ở các điều kiện khác nhau trong dung dịch nước với phạm vi nhạy pH từ 2-9. Hydrogel cho độ trương nở tăng theo độ tăng pH. Giá trị cao nhất đạt được khi pH =9. Thuốc kháng sinh Oxttetracycline được nạp vào các nền hydrogel để khảo sát sự thải thuốc ở các pH và nhiệt độ khác nhau. Kết quả thử nghiện vitro cho thấy lượng thải thuốc tăng theo thời gian, nhiệt độ và pH. Liều thải cao nhất đạt được sau 48 giờ ở pH=9.

Carbohydrate Polymers 75 (2009) p222 Synthesis and characterization of hydrogels based on grafted chitosan for the controlled drug release

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Sayed Aly qua email: dr_alysayed@yahoo.com

Tổng hợp và định tính polymer siêu thấm hút từ N,O-carboxymethyl chitosan trùng hợp ghép với các monomer gốc vinyl.

Một polymer siêu thấm được điều chế bằng phương pháp đồng trùng hợp ghép sodium acrylate và 1-vinyl- 2-pyrrolidone lên mạch N,O-carboxymethyl chitosan. Cấu trúc phân tử của polymer này được khẳng định bởi phổ hồng ngoại FTIR. Hình thái bề mặt trước và sau khi trùng hợp được kiểm nghiệm bởi kính hiển vi điện tử quét SEM. Qua khảo sát, các điều kiện tối ưu cho việc tổng hợp polymer để có độ thấm hút nước lớn nhất được xác định. Polymer có tốc độ thấm hút nước diễn ra theo quy luật động học bậc nhất và tỷ lệ trương nở phụ thuộc độ pH môi trường.

Carbohydrate Polymers 75 (2009) p287 Synthesis and characterization of a novel superabsorbent polymer of N,O-carboxymethyl chitosan graft copolymerized with vinyl monomers.

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Chen Yu qua email: cylsy@163.com


Hydrogel kiểu mạng bán đan xuyên từ hai polymer : N-carboxylethyl chitosan tan được trong nước và poly (2- hydroxyethyl methacrylate) quang trùng hợp.

Hydrogel kiểu mạng bán đan xuyên được tổng hợp từ chiếu xạ UV dung dịch chứa N-carboxylethyl chitosan (CECS) và 2-hydroxyethyl methacrylate (HEMA) với sự có mặt chất khơi mào quang hóa D-2959. Tính chất của các hydrogel được xác định bằng phân tích qua kính hiển vi điện tử quét SEM, phân tích nhiệt trọng lượng TGA, nhiệt vi sai DSC và nhiễu xạ tia X XRD.Kết quả từ SEM cho thấy hydrogel có bề mặt xốp và diện tích bề mặt cao. Kết quả phổ XRD chỉ ra hydrogel có mạng bán đan xuyên CECS/poly (HEMA) semi-IPN có cấu trúc vô định hình. Độ bền ổn định nhiệt và mức độ cần bằng trương nở cải thiện đáng kể theo sự gia tăng hàm lượng CECS. Kết quả phân tích nhiệt vi sai cho thấy hàm lượng nước tự do tăng khi CECS tăng trong khi lượng nước liên kết lại giảm đi. Các phân tích độc tính tế bào cho kết quả hydrogel kiểu mạng bán đan xuyên này mang tính tương thích sinh học. Từ các đánh giá bước đầu nói trên, vật liệu hydrogel này có tiềm năng cho các ứng dụng trong lĩnh vực y sinh học.

Carbohydrate Polymers 75 (2009) p293 Semi-interpenetrating polymer network hydrogels based on water-soluble N-carboxylethyl chitosan and photopolymerized poly (2- hydroxyethyl methacrylate)

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Jun Nie qua email: niejun@mail.buct.edu.cn

Tổng hợp , phân tích tính chất và tính kháng khuẩn của vật liệu nanocomposite chitosan/ đất sét khoáng lớp silicate

Vật liệu nanocomposite chitosan/ đất sét khoáng lớp silicate với cá tỷ lệ khác nhau được điều chế bằng kỹ thuật bay hơi dung môi sau trộn. Khoáng sét rectorite chứa ion Ca 2+ và rectorite biến tính bằng cetyltrimethyl ammonium bromide được dùng trong nghiên cứu này. Cấu trúc của vật liệu được khảo sát bằng kỹ thuật phân tích nhiễu xạ tia X XRD, kính hiển vi điện tử truyền suốt TEM và phân tích phổ hồng ngoại FTIR. Các kết quả cho thấy mạch chitosan chèn sâu vào trong các lớp phiến silicate hình thành nanocomposite kiểu chen tách. Khoảng cách giữa các phiến sét silicate tăng lên khi hàm lượng chitosan tăng. Khi tỷ lệ khối lượng chitosan và khoáng rectorite hữu cơ là 12:1, khoảng cách chen tách đạt được là 8.24nm. Tuy nhiên, khi tăng thêm nữa lượng chitosan, khoảng cách chen tách giữa các phiến silicate giảm dần. Trong thử nghiệm vitro tính kháng khuẩn, khoáng sét tinh rectorite không ngăn ngừa được sự phát triển của vi khuẩn.Nhưng với nanocompoosite chitosan/ đất sét khoáng lớp silicate thể hiện tính kháng khuẩn mạnh hơn chitosan, đặc biệt hiệu lực lên các khuẩn gram dương. Khi có sự gia tăng hàm lượng chitosan và khoảng cách chen tách lớp sét, vật liệ nanocomposite này cho tính kháng khuẩn loại gram dương mạnh hơn loại gram âm. Nồng độ tối thiểu cho hiệu quả ức chế sự phát triển của Staphylococcus aureus and Bacillus subtilis là 0.00313% theo khối lượng trên một đơn vị thể tích và thời gian ức chế hữu hiệu lên chủng B. subtilis ứng với nồng độ trên là lâu hơn 120 giờ.

Polymer 47 (2006) p6738 Preparation, characterization and antimicrobial activity of chitosan/layered silicate nanocomposites

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Yumin Du qua email: duyumin@whu.edu.cn


Vi vỏ thiên nhiên từ alginate và chitosan : Độ bền ổn định vỏ và khả năng thẩm thấu

Alginate sodium (ALG) và chitosan (CHI) được dùng làm nguyên liệu chính để tổng hợp vi vỏ đa điện ly tự nhiên và giảm cấp sinh học bằng kỹ thuật tự tổ hợp tĩnh điện. Vỏ ALGeCHI duy trì dạng cầu trong các nồng độ khác nhau của poly(styrenesulfonate sodium) (PSS). Nồng độ PSS tối đa còn dò thấy sự hiện diện vi vỏ là 20%. So với các vỏ PSS và poly(allylamine hydrochloride) (PAH) mà nó biến dạng hoặc bể ở nồng độ lớn hơn hoặc bằng 4% PSS, vỏ ALGe CHI thể hiện độ bền ổn định cao hơn. Trong lúc đó, độ thấm của vỏ ALGeCHI trực và sau khi ủ trong dung dịch PSS được dò trực tiếp bằng kỹ thuật huỳnh quang sau khi tẩy quang (FRAP). Thành phần của vỏ ALGeCHI được cho là nguyên nhân tạo ra độ bền khác nhau của vi vỏ này.

Polymer 47 (2006) p6167 Natural microshells of alginate- chitosan: Unexpected stability and permeability

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Xia Tao và Jian-Feng Chen qua email: taoxia@yahoo.com ; chenjf@mail.buct.edu.cn

Sự hấp phụ màu nhuộm acid lên trên hạt nano chitosan

Bài báo trình bày khảo sát về ứng xử của hạt nano chitosan có kích thước 180 nm và mức độ deacetylate hóa 74% như chất hấp phụ nhằm loại bỏ màu nhuộm Acid Green (AG27) trong dung dịch nước. Nồng độ màu nhuộm ở mức cân bằng Q<sub>e</sub> được tính theo khối lượng hạt nano trong dung dịch đã trộn Qes và khối lượng chitosan trong hạt nano Q<sub>ep</sub>. Dữ liệu hấp phụ đẳng nhiệt được phân tích theo phương trình Langmuir cho các mẫu chitosan. Dung lượng hấp phụ đơn lớp Langmuir được tính theo Q<sub>e</sub> và Q<sub>ep</sub>.. Kết quả đạt được là 1051.8 mg/g và 2103.6 mg/g. Giá trị thu được lớn hơn khi so với giá trị có từ hạt chitosan có kích cỡ micro.

Polymer 47 (2006) p5838 The sorption of acid dye onto chitosan nanoparticles.

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Y.S. Szeto qua email: tcsetoys@polyu.edu.hk

Tổng hợp và xác định tính chất của vi bi polymer từ tính chitosan–poly(acrylic acid)

Đây là bài báo công bố phương pháp cải tiến trong tổng hợp vi bi từ tính polymer từ chitosan và poly(acrylic) (CS-PAA). Đầu tiên, nhờ quá trình tự tổ hợp nhờ điện tích trái dầu giữa CS và hạt nano Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> , các lõi từ CS được hình thành. Sau đó, monomer AA được trùng hợp trên các lõi từ CS theo phương pháp phản ứng cho hệ polymer tan trong nước và monomer. These polymer magnetic microspheres had a high Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> loading content, and showed unique pH-dependent behaviors on the size and zeta potential. Các vi bi từ tính mang hàm lượng Fe<sub>3</sub>O<sub>4</sub> cao và cho các ứng xử phụ thuộc pH độc đáo theo kích thước và thế zeta. Theo dữ liệu đo từ tính, các vi bi polymer từ tính CS-PAA cũng có tính chất đáp ứng từ nhanh. Sự phóng thải liên tục chất ammonium glycyrrhizinate bị giữ trong vi bi dưới tác động được khảo sát. Kết quả cho thấy chúng phù hợp trong ứng dụng làm chất tải thuốc theo mục tiêu.

http://i290.photobucket.com/albums/ll270/ctnhan/magneticCS-PAAmicrophereexp.jpg

Polymer 47 (2006) 5287 Preparation and characterization of chitosan–poly(acrylic acid) polymer magnetic microspheres

Bạn nào quan tâm có thể liên hệ với tác giả Wuli Yang qua email: wlyang@fudan.edu.cn