tanyenxao
07-20-2009, 03:45 PM
Mút cứng polyurethane (rigid foam).
Thành phần của mút cứng khác so với mút mềm là nó sử dụng các triol ngắn (polyol ngắn chứa 3 nhóm OH) hoặc những polyol đa chức (chứa nhiều nhóm OH), đặc trưng với khối lượng M khoảng 400. Nó sử dụng MDI thô và quan trọng hơn là dùng tác nhân thổi vật lý. Nhờ lượng liên kết ngang lớn giúp mút cứng hơn (Nhiệt thủy tinh hóa Tg của mút cứng cao hơn nhiệt độ phòng)
http://3.bp.blogspot.com/_53BTlMNVIWw/SZbSZeEZWMI/AAAAAAAAAAU/PhMfef9oPqE/s400/RIGID+FORMULA+1.JPG
(công thức mang tính minh họa)
Trên là một công thức đặc trưng cho mút cứng. Độ cứng của mút dựa vào cac vòng benzen của isocyanate và tỷ lệ giữa iso/polyol. Muốn có độ cứng cao hơn có thể sử dung các polyol hệ đường (do chứa nhiều nhóm -OH), số nhóm chức của hệ này vào khoảng f = 6. Phụ thuộc vào nồng độ của isocyanate (NCO) so với nhóm hydroxyl (OH) mà phản ứng của mút dạng này tỏa nhiều nhiệt hơn so với mút mềm và cũng sử dụng ít xúc tác hơn.
Trong công thức trên sử dụng xúc tác triethylene diamine để xúc tác phản ứng giứa iso và polyol. Lượng liên kết ngang được tăng lên nhờ thêm glycerin, quá trình foam hóa được hỗ trợ bằng tác nhân thổi vật lý (ví dụ HCFC 141b, cyclopentan, CO2...) . Tuy nhiên nước cũng có thể được thêm vào để đóng vai trò thổi phụ trợ giúp tăng độ bền cơ học của sản phẩm. Mút cứng thường được đổ vào khuôn hoặc trong các khe, thí dụ như sản xuất tủ lạnh, thùng chứa hay các tấm cách nhiệt Panel (http://www.chemvn.net/chemvn/showthread.php?p=42478#post42478). Những thiết bị khuấy trộn đổ hóa chất vào khuôn thường được sử dụng trong lĩnh vực mút này (RIM- reaction injection molding), tuy nhiên cũng có thể sử dụng thiết bị dạng phun (spray) cho những ứng dụng đặc biệt.
Thành phần của mút cứng khác so với mút mềm là nó sử dụng các triol ngắn (polyol ngắn chứa 3 nhóm OH) hoặc những polyol đa chức (chứa nhiều nhóm OH), đặc trưng với khối lượng M khoảng 400. Nó sử dụng MDI thô và quan trọng hơn là dùng tác nhân thổi vật lý. Nhờ lượng liên kết ngang lớn giúp mút cứng hơn (Nhiệt thủy tinh hóa Tg của mút cứng cao hơn nhiệt độ phòng)
http://3.bp.blogspot.com/_53BTlMNVIWw/SZbSZeEZWMI/AAAAAAAAAAU/PhMfef9oPqE/s400/RIGID+FORMULA+1.JPG
(công thức mang tính minh họa)
Trên là một công thức đặc trưng cho mút cứng. Độ cứng của mút dựa vào cac vòng benzen của isocyanate và tỷ lệ giữa iso/polyol. Muốn có độ cứng cao hơn có thể sử dung các polyol hệ đường (do chứa nhiều nhóm -OH), số nhóm chức của hệ này vào khoảng f = 6. Phụ thuộc vào nồng độ của isocyanate (NCO) so với nhóm hydroxyl (OH) mà phản ứng của mút dạng này tỏa nhiều nhiệt hơn so với mút mềm và cũng sử dụng ít xúc tác hơn.
Trong công thức trên sử dụng xúc tác triethylene diamine để xúc tác phản ứng giứa iso và polyol. Lượng liên kết ngang được tăng lên nhờ thêm glycerin, quá trình foam hóa được hỗ trợ bằng tác nhân thổi vật lý (ví dụ HCFC 141b, cyclopentan, CO2...) . Tuy nhiên nước cũng có thể được thêm vào để đóng vai trò thổi phụ trợ giúp tăng độ bền cơ học của sản phẩm. Mút cứng thường được đổ vào khuôn hoặc trong các khe, thí dụ như sản xuất tủ lạnh, thùng chứa hay các tấm cách nhiệt Panel (http://www.chemvn.net/chemvn/showthread.php?p=42478#post42478). Những thiết bị khuấy trộn đổ hóa chất vào khuôn thường được sử dụng trong lĩnh vực mút này (RIM- reaction injection molding), tuy nhiên cũng có thể sử dụng thiết bị dạng phun (spray) cho những ứng dụng đặc biệt.